Chuyển đến nội dung chính

Di sản tư liệu thế giới: Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long

Di sản tư liệu tại Việt Nam do Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO công nhận gồm 3 Di sản tư liệu thế giới và 4 Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương

Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long đã được công nhận là di sản tư liệu thế giới ngày 9/3/2010, tại Macau, Trung Quốc.

Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, hay bia tiến sĩ Văn Miếu-Quốc Tử Giám là các bia đá ghi tên những người đỗ Tiến sĩ các khoa thi thời Lê sơ, thời Mạc và thời Lê trung hưng (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Việt Nam. Các bia đá này đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới vào ngày 9/3/2010, tại Macau, Trung Quốc. Sau Mộc bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ hai của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thế giới.

Lịch sử

Các bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long được dựng trong thời gian gần 300 năm (từ năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức thứ 15) đến năm 1780 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41), khắc các bài văn bia đề danh tiến sĩ Nho học Việt Nam của các khoa thi Đình từ năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3) đến năm 1779 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40).[3] Trong thời gian đó, có 124 khoa thi với 30 khoa thi không được dựng bia và 91 khoa thi được dựng bia nên số lượng bia đầy đủ ở đây phải là 91 tấm bia. Tuy nhiên, do biến thiên của lịch sử mà đến nay chỉ còn 82 tấm bia tiến sĩ, 9 tấm bia đã bị mất.[4] Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 thì lúc đó có 124 khoa thi Tiến sĩ nhưng nay chỉ còn 82 bia. Như vậy 42 khoa thi có bao nhiêu khoa không được dựng bia, bao nhiêu khoa có dựng nhưng đã mất? Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì 9 khoa thi những năm 1469, 1472, 1484,  1490,1493, 1499, 1505, 1508 và 1634 đều được dựng bia nhưng nay không thấy có.

Năm 1484, với chủ trương đề cao Nho học và tôn vinh bậc tri thức Nho học đỗ đại khoa, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng các tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám cho các khoa thi Đình các năm trước đó của nhà Hậu Lê, 7 bia đầu tiên, được dựng năm này. Trong số 7 bia tiến sĩ đầu tiên, thì 2 bia đầu được lập cho hai khoa thi Đình, được lấy làm đại diện, của các triều vua trước, là khoa thi năm 1442 và khoa thi năm 1448, được Lê Thánh Tông cử Trực học sĩ Hàn Lâm Quách Đình Bảo phụ trách xây dựng văn bia, cùng hai vị Đông Các đại học sĩ (sau này cũng là 2 phó soái Tao đàn Nhị thập bát Tú) là: Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn các bài văn bia, và được dựng riêng trong hai bi đình Tả vu, Hữu vu. Số lượng bia tiến sĩ được dựng vào thời đại nhà Lê sơ gồm 12 bia tiến sĩ đầu tiên, cho các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1514 (bia tiến sĩ khoa thi năm 1514 được dựng năm 1521). Những người soạn nội dung văn bia đều là các danh nho bậc nhất đương thời của Đại Việt, như các tiến sĩ: Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Lê Ngạn Tuấn, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trùng Xác, Lưu Hưng Hiếu, Lê Trung, Vũ Duệ, Vũ Công Dự...

Nhà Mạc do điều kiện đang tiến hành nội chiến với nhà Lê Trung hưng, nên chỉ dựng được 2 bia tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, mặc dù tổ chức được khá nhiều kỳ thi tiến sĩ Nho học, đó là bia tiến sĩ cho khoa thi năm 1529 (niên hiệu Minh Đức thứ 3), khoa thi đầu tiên của triều Mạc Thái Tổ, và bia tiến sĩ cho khoa thi năm 1518 (niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 thuộc triều đại Lê sơ, được dựng năm 1536). Như vậy, trong suốt thời kỳ nhà Mạc nắm giữ kinh thành Thăng Long, với 22 khoa thi Đình được tổ chức, nhưng chỉ có duy nhất một khoa thi tiến sĩ nhà Mạc được dựng bia tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám.

Sang triều đại Lê Trung hưng, các kỳ thi tiến sĩ Nho học được khôi phục ngay từ thời triều vua Lê Trung Tông khi đang còn đóng đô ở Thanh Hóa và chưa chiếm lại được Thăng Long, với khoa thi Điện (thi Đình) đầu tiên là khoa thi Chế khoa năm 1554. Sau khi chiếm lại được Thăng Long năm 1592, các kỳ thi Đình được tổ chức đều đặn hơn. Nhưng cũng phải đến năm 1653 (niên hiệu Thịnh Đức thứ nhất), thì nhà Lê Trung hưng mới tiến hành một đợt dựng bia tiến sĩ lớn nhất tại Văn Miếu Thăng Long, Thượng thư Bộ Lễ Dương Trí Trạch được giao tổ chức dựng 25 bia tiến sĩ từ khoa thi năm 1554 đến khoa thi năm 1652.

Sau đó, tới năm 1717 (niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13), mới lại có đợt dựng bia lớn thứ 2 trong triều đại nhà Lê Trung hưng (do Thám hoa Nguyễn Quý Đức chủ trì), với 21 bia tiến sĩ cho các khoa thi từ năm 1656 đến khoa thi năm 1715. Với hai đợt dựng bia tiến sĩ lớn, sau đó là các lần dựng bia thường xuyên sau mỗi khoa thi (trung bình cứ 1 đến 4 năm sau mỗi khoa lại tiến hành dựng bia tiến sĩ cho khoa thi ngay trước đó, một số khoa dựng bia ngay trong năm thi Đình) cho tới bia tiến sĩ cuối cùng cho khoa thi năm 1779, nhà Lê trung hưng đã dựng phần lớn bia tiến sĩ (68).

Sang triều đại nhà Tây Sơn (không tổ chức thi tiến sĩ Nho học) và đặc biệt là nhà Nguyễn, kinh đô được chuyển vào Phú Xuân-Huế, Văn Miếu Thăng Long không còn là văn miếu quốc gia nữa nên các bia tiến sĩ không còn được dựng tại đây. Nhà Nguyễn bắt đầu cho dựng bia tiến sĩ tại Văn Thánh Miếu Huế từ khoa thi năm 1822.

Năm 1805, vua Gia Long cho xây thêm Khuê Văn Các. Khuê Văn Các gồm có 2 tầng, 8 mái, tầng dưới là bốn trụ gạch, tầng trên là kiến trúc gỗ, bốn mặt đều có cửa sổ tròn với những con tiện tỏa ra bốn phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng. Hai bên đi vào bằng hai cổng Bí Văn và Súc Văn. Khuê Văn Các là nơi tổ chức bình các bài thơ hay của các sĩ tử.

Không có thống kê chính thức số tiến sĩ được ghi trên các bia tiến sĩ này, các nguồn khác nhau cho biết trong khoảng thời gian đó đã có từ 1.303 đến 1.323 tiến sĩ , trong số này có 18 trạng nguyên, 21 bảng nhãn và 33 thám hoa. Tuy nhiên, số lượng 82 bia còn lại có thể không đầy đủ và không ghi hết các tên họ các vị tiến sĩ thời ấy.

Di sản

Với 3 đợt dựng bia tiến sĩ lớn vào các năm 1484 (7 bia), 1653 (27 bia), 1717 (19 bia), xen kẽ 2 giai đoạn dựng bia tiến sĩ thường xuyên vào cuối các triều đại Lê sơ và Lê trung hưng, 82 bia tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám (gồm: 13 bia khắc các khoa tiến sĩ triều đại nhà Lê sơ, 1 bia khắc khoa thi tiến sĩ triều đại nhà Mạc, 68 bia khắc các khoa thi tiến sĩ triều đại nhà Lê trung hưng), đề danh cùng thứ bậc và quê quán của 1304 vị tiến sĩ Nho học (3 người trong số đó là Trịnh Thiết Trường, Nguyễn Nguyên Chẩn và Nguyễn Nhân Bị đều dự thi và đỗ tiến sĩ hai lần).

Di sản tư liệu

Di sản tư liệu UNESCO là những tài liệu, văn bản, bản ghi âm, hình ảnh, phim ảnh,... có giá trị nổi bật mang tính toàn cầu, được UNESCO công nhận và bảo tồn thông qua Chương trình Ký ức Thế giới. Việt Nam đã có 11 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, bao gồm cả Di sản Tư liệu Thế giới và Di sản Tư liệu khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 

Các loại di sản tư liệu được UNESCO công nhận: 

Di sản Tư liệu Thế giới: Là những di sản có giá trị nổi bật mang tính toàn cầu, phản ánh những thành tựu tiêu biểu của lịch sử, văn hóa, tư tưởng, khoa học, nghệ thuật. 

Di sản Tư liệu khu vực Châu Á-Thái Bình Dương: Là những di sản có giá trị nổi bật trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, được UNESCO công nhận và bảo tồn. 

Xem thêm: https://www.unescoviet.org/2025/08/di-san-tu-lieu-gioi.html

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Di sản văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế

Tại Việt Nam hiện đã có 16 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh vào các danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại (Representatitive List of the Intangible Cultural Heritage of Humanity) và cần được bảo vệ khẩn cấp (List of Intangible Cultural Heritage in Need of Urgent Safeguarding) theo thứ tự năm công nhận mới nhất Nhã nhạc cung đình Huế, di sản văn hóa thế giới phi vật thể đầu tiên tại Việt Nam, được công nhận tháng 11 năm 2003, đến năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, "trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia". ...

"Non nước Cao Bằng" vinh dự đoạt giải thưởng toàn cầu

  Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng vinh dự là 1 trong 5 CVĐC trên thế giới được Giải thưởng “Mô hình hoạt động hiệu quả của Mạng lưới CVĐC toàn cầu UNESCO”. Hội nghị quốc tế lần thứ 11 của Mạng lưới Công viên địa chất (CVĐCTC) toàn cầu UNESCO (GGN) diễn ra tại Cộng hòa Chi-lê từ ngày 05 – 15/9. Hội nghị GGN lần thứ 11 quy tụ khoảng 1.000 đại biểu, gồm đại diện các CVĐC toàn cầu UNESCO, các CVĐC tiềm năng, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, chính khách và nhà quản lý. Đây là diễn đàn để các CVĐC gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu những mô hình hiệu quả, giải pháp thiết thực trong xây dựng và phát triển danh hiệu CVĐC theo tiêu chí của UNESCO. Hội nghị cũng khẳng định vai trò gắn kết của GGN trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với mục tiêu phát triển bền vững. Rất đông đại biểu, du khách ấn tượng không gian văn hóa Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng tại Hội nghị GGN lần thứ 11. Tham dự Hội nghị, CVĐC Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng t...

Công viên địa chất Non nước Cao Bằng nhận giải thưởng quốc tế của UNESCO

  GD&TĐ - Giải thưởng là sự ghi nhận xứng đáng cho nỗ lực của tỉnh Cao Bằng trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch. Công viên địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng nhận giải thưởng “Mô hình hoạt động hiệu quả của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO”. Trong khuôn khổ Hội nghị quốc tế lần thứ 11 của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO (GGN) diễn ra tại Cộng hòa Chi-lê từ ngày 5 – 15/9, Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng vinh dự là một trong 5 Công viên địa chất trên thế giới được trao Giải thưởng “Mô hình hoạt động hiệu quả của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO”. recommended by itsvividleaves.com Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà container mới – Xem giá ngay! Tìm hiểu thêm Hội nghị GGN lần này quy tụ khoảng 1.000 đại biểu là đại diện các Công viên địa chất toàn cầu, Công viên địa chất tiềm năng, các nhà khoa học, nghiên cứu, chính khách và nhà quản lý, nhằm chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu mô hình hiệu ...