Tại Việt Nam hiện đã có 16 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh vào các danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại (Representatitive List of the Intangible Cultural Heritage of Humanity) và cần được bảo vệ khẩn cấp (List of Intangible Cultural Heritage in Need of Urgent Safeguarding) theo thứ tự năm công nhận mới nhất
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được công nhận ngày 1/12/2016. Phạm vi di sản gồm 14 tỉnh: Ninh Bình, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phú Thọ, Lạng Sơn, Lào Cai, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh.
Đạo Mẫu (道母)
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam hay thường gọi là Đạo Mẫu (道母), thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ Nữ thần, Thánh Mẫu, Thánh Cô, Mẫu tam phủ, tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất, mà có sự khác biệt về quyền năng, địa vị, phân cấp thứ bậc riêng. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa lâu đời, lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến. Ngoài ra còn có Thánh Bản mệnh là vị thần đứng đầu dẫn dắt người tu đạo đi đến với Mẹ (Mẫu) - Đấng Tối cao trong Đạo Mẫu Việt Nam – Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam.
Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Ủy ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại 21 tỉnh đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Những tài liệu văn bản ghi chép về các Thánh Mẫu thường xuất phát từ thần thoại, huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần tích, thần phả. Các truyện kể dân gian về 4 vị Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa tiên, lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép lại trong các sách cổ như Việt điện u linh tập, ngoài ra còn có các truyện kể dân gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.
Cùng với việc sưu tầm, một số tác giả là các trí thức nho học thời phong kiến đã tiến hành ghi chép lại và sáng tác thêm những huyền thoại, truyền thuyết đã được sưu tầm ghi chép từ trước và thậm chí là sáng tác thêm cho phù hợp tư tưởng lễ giáo thời kỳ đó. Từ thời Hậu Lê, đã có những việc như vậy nhằm phục vụ cho việc phong thần của các vị vua với hai trường hợp điển hình với các ghi chép-sáng tác về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền bắc Việt Nam của Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm và trường hợp thứ hai là về Thiên Y A Na ở nam Trung Bộ Việt Nam của Phan Thanh Giản. Cũng có một nguồn tư liệu khác được dân gian sáng tác từ các huyền thoại, truyền thuyết và thậm chí là các truyện, thơ về các Thánh Mẫu. Đó là các bài hát văn ở Mẫu Tam phủ Tứ phủ với phần cốt lõi của các bài hát văn là lai lịch, sự tích các vị thần, nhất là các Thánh Mẫu.
Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nữ thần, Thánh Mẫu (Mẫu Thần) ở Việt Nam đều là các công trình của các nhà khoa học người Pháp như Parmenties, Maspero, Durand, Simond và kế tiếp là các nhà khoa học người Việt như Nguyễn Văn Huyên, Đào Thái Bình,...
Từ thập niên 1990, nhất là sau hội thảo quốc gia về Thánh Mẫu do Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu (Hà Nội), không khí học thuật liên quan tới tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng dân gian nói chung diễn ra sôi động, hàng loạt tác phẩm, công trình nghiên cứu đã được công bố.
Từ các nghiên cứu tổng hợp, các nhà nghiên cứu đã hệ thống hóa được việc tôn thờ Mẫu ở Việt Nam trên cả phương diện đồng đại và lịch đại. Về phương diện lịch đại, tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa (Mẫu Tam phủ, Tứ phủ). Tới thế kỷ XVII-XVIII, sau khi tín ngưỡng Mẫu Tam phủ Tứ phủ đã được hình thành và phát triển thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần.
Cùng với sự tiến bộ xã hội và nhân đạo phát triển, sau này người ta phối thờ thêm các vị thần linh (có cả nam thần) là nhân thần có công khai hoang mở đất, vị anh hùng dân tộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, các vị thần linh bản cảnh địa phương có công truyền nghề, các tiên hiền,... Những vị này được thờ tại đền riêng hoặc phối thờ vào cùng với các đền, điện thờ Mẫu trên khắp cả nước, hình thành nên hệ thống thần linh bản địa được thờ phụng rộng rãi gắn liền với cuộc sống nhân sinh nước Việt chứ không còn thuần túy thờ Nữ Thần, Thánh Mẫu nữa. Đến nay tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được gọi chung là Đạo Mẫu Việt Nam, bản chất là thờ Tam phủ, Tứ Phủ (Tam phủ công đồng - Tứ Phủ Vạn Linh) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh vẫn là thần chủ.
Về phương diện đồng đại, đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào phương Nam trong quá trình nam tiến. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã giao thoa, tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, người Khmer, người Lào từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam ở ba miền Bắc bộ, Trung bộ và cả Nam bộ.
Tìm hiểu chi tiết Đạo Mẫu
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn_ng%C6%B0%E1%BB%A1ng_th%E1%BB%9D_M%E1%BA%ABu_Vi%E1%BB%87t_Nam
Phạm vi di sản phi vật thể
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt ở 14 tỉnh thành phía Bắc Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. 14 tỉnh có tín ngưỡng thờ mẫu trong hồ sơ UNESCO ghi danh là: Ninh Bình, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phú Thọ, Lạng Sơn, Lào Cai, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh.
Dưới đây là các trung tâm thờ mẫu tiêu biểu:
- Hà Nội: có 1014 di tích thờ Mẫu và 886 điện tư gia,[5] tiêu biểu như: Phủ Tây Hồ, Đền Quan Tam Phủ, đền Rừng, đền Núi, đền Mẫu Thoải (Gia Lâm), đền Lừ, đền Sét, đền An Thọ, đền Bà Kiệu, đền Liên Hoa, đền Lưu Phái, Minh Ngự Lâu (Thanh Trì), cụm đền Đại Lộ, đền Sở, đền Dầm (Thường Tín), Đền Sòng Vọng, Lảnh Giang Vọng Từ (16 Hàng Hành), Đền Hàng Bạc (Nguyên Khiết Linh Từ), Đền Hàng Quạt (Thuận Mỹ Linh Từ),...
- Ninh Bình: có 952 di tích lịch sử văn hóa thờ và phối thờ Mẫu,[6][7][8] tiêu biểu như: quần thể di tích Phủ Dầy (huyện Vụ Bản) bao gồm Phủ Chính Tiên Hương, Phủ Quảng Cung (Xã Yên Đồng, huyện Ý Yên), Phủ Nấp, Phủ Vân Cát, Phủ Nội Tiên Đình, Đền Dâu, đền Quán Cháo, phủ Đồi Ngang, Đền Sòng Sơn, Đền Cửu Tỉnh, phủ Châu Sơn, đền Cô Đôi Thượng Ngàn, đền Vân Thị, đền Sầy, chùa Bái Đính cổ, đền Quèn Thạch, đền Thung Lá, đền Thung Nắng, Đền Lảnh Giang (Duy Tiên), đền Bà Vũ, đền Mẫu Cửu Tỉnh, miếu Bà Đặng Xá, miếu Hạ Đồng Lạc...
- Hưng Yên: Đền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải, Đền Hưng Long thờ Quan Hoàng Bơ, Đền Thánh Mẫu thờ Đinh Triều Hoàng Hậu, Đền Mẫu Hưng Yên, đền Thiên Hậu, đền Ghênh Văn Lâm, đền Bảo Châu, đền Mẫu Ba Đông, Đền Xích Đằng, Đền Đậu An,...
- Hải Phòng: Đền Đoan (Ninh Giang), Đền thờ quan Tuần Tranh, đền cổ Đông Giang Linh Từ (Trương Mỹ - TPHD), đền mẫu Kinh Câu (Tứ Kỳ) và đền Mẫu Sinh, đền Gốm, đền Dím, đền Cối Xuyên, Phủ Thượng Đoạn, Đền Phú Xá, Đền Tiên Nga (Lê Lợi) , Đền Đông Cuông Đồng Lùn , Đền Long Sơn- Cô Chín Suối Rồng, Đền Tiên Nga, Đền Tam Kỳ, Đền Nghè , Đền Mẫu Vừng, Đền Hoành Sơn , Đền Cây Cậy , Đền Tứ Vị Thánh Nương - Đồ Sơn,...
- Bắc Ninh: Đền Tiên Du, Đền Đầm (thờ Mẫu Thoải), Miếu Cô Cam Đường, Đền Bà Chúa Tài Lộc, Đền Công Đồng Suối Mỡ, đền Từ Mận, đền Đà Hy, đền Phủ, đền Má, đền Bà Chúa Kho Thanh Bình, phủ Doãn, điện Sơn Linh, đền Chúa Nguyệt Hồ, phủ Bắc Hà, đền Cô Chín thượng, đền Ông Hoàng Bảy Thượng Thiên, đền Cô Chín Hồng Kỳ Yên Thế, Đền Cốc Lâm, Đền Chúa Then,...
- Phú Thọ: Đền Tam Giang, Đền thờ Tam tòa Thánh Mẫu, Đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên, Đền Chân Suối, Đền Thanh Sơn, Đền chúa Mán -Đông Hội, Đền Thanh Lanh, Đền Bồng Lai, đền Đông Sơn, đền Chúa Thác Bờ, đền Mẫu Đầm Đa, Đền Thác Bờ, Động Thác Bờ, Đền Thác Bờ cổ, động Hoa Sơn...
- Lạng Sơn: Đền Mẫu Sơn, Đền Công Đồng Bắc Lệ, Đền Mẫu Đồng Đăng, đền Mẫu Thượng Ngàn, Đền Suối Lân, Đền Giám Sát, Đền Chầu Lục, Đền Đồng Mỏ, Đền Đèo Kẻng, Đền Suối Ngang, Đền Chúa Cà Phê, Đền Kỳ Cùng.
- Lào Cai: Đền Bảo Hà, Đền Cô Tân An, đền Đôi Cô Cam Đường, ụm di tích Đền Đông Cuông, Đền Tuần Quán, đền Ghềnh Ngai,...
- Tuyên Quang: đền Ghềnh Quýt, đền Pha Lô, đền Đồng Xuân, đền Cảnh Xanh, đền Mẫu Ỷ La, đền Lương Quán, đền Mỏ Than, đền Lâm Sơn, đền Quang Kiều, đền Cấm, đền Ba Khuôn và đền Minh Lương, Đền Cổng Trời,...
- Thanh Hóa: Đền Sòng Sơn, Đền Chín Giếng, Đền Phố Cát, Đền Rồng, Đền Nước, Đền Phủ Mỗ, Đền Mẫu Phong Mục, Đền Hàn Sơn, Đền Cây Thị(Chầu đệ Tứ), Đền Ba Bông,...
- Nghệ An: Đền Ông Hoàng Mười, Đền Cờn trong - ngoài, đền Hồng Sơn, đền Cửa, đền Ngọc Điền, đền Pu Nhạ Thầu.
- Hà Tĩnh: Đền Củi thờ Ông Hoàng Mười, đền Cả - Dinh đô Quan Hoàng Mười, đền Nước Lạt, Miếu Chai (Thạch Đài), đền Văn Sơn (Thạch Đỉnh).
- Huế: Điện Hòn Chén, Thánh Đường Thiên Tiên Thánh Giáo.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Đền Mẫu Cửu, đền Đằng Giang, đền Chúa Lục, Đền Đại An(Chầu Mười), Đền Sòng Sơn, Đền Tiên La, Đền Bảo Hà, Đền Chúa bà Thiên Nhiên Cảnh (Thảo Cầm Viên), Đền Mẫu Thoải (Tôn Đản), Đền Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy, Đền Ngũ Phương, Đền Chúa Thác Bờ, Miếu Nổi Phú Hòa Vạn, Đền Nam Bát Hải Vọng Từ, Đền Nam Sơn, Đền Bà Chúa Ống,...
- Đồng Nai: Đền Cấp Rang, Đền Sơn Lâm Đệ Nhất Chúa Bà, Đền Bảo Hà, Đền Cô Bé, Đền Thanh Lâm Linh Từ, Đền Mẫu Chúa Bạch - Cô Bé Sóc,...
- Lâm Đồng: Đền Chầu Lục, Đền Bắc Lệ, Đền.
Di sản văn hóa phi vật thể (tiếng Anh: intangible cultural heritage)
là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác bao gồm lễ hội, lối sống, bí quyết truyền nghề, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống. Công ước 2003 của UNESCO bác bỏ việc xếp hạng di sản văn hóa phi vật thể nên không có khái niệm xếp hạng di sản theo cấp tỉnh, cấp quốc gia hay cấp thế giới.
Ở cấp độ toàn cầu, Di sản văn hóa phi vật thể có danh sách được UNESCO đưa ra để ghi danh giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới. Danh sách này được bắt đầu năm 2001 với 19 di sản, năm 2003 danh sách có thêm 28 di sản. Danh sách tiếp theo được lập vào ngày 25 tháng 11 năm 2005. Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử cho UNESCO trước khi được một ủy ban của tổ chức này xem xét khả năng đưa vào danh sách.
Tại hội nghị lần thứ 3 họp tại Istanbul tháng 11/2008, để nâng cao nhận thức về tính cấp thiết của vấn đề bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, Ủy ban liên chính phủ về bảo tồn Di sản phi vật thể đã đưa ra hai danh sách:
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
Các kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại đã được công bố trước đây nay được chuyển vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nhận xét
Đăng nhận xét