Chuyển đến nội dung chính

Lê Hữu Trác: Danh nhân Việt Nam được UNESCO vinh danh

Phiên họp của Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) lần thứ 42, ngày 21/11/2023, đã thông qua nghị quyết phê chuẩn danh sách các “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2024-2025," trong đó có hồ sơ kỷ niệm 300 năm Ngày sinh của Danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Như vậy, đến nay, UNESCO đã thông qua nghị quyết vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của 7 Danh nhân Việt Nam: 

  • 600 năm Ngày sinh Nguyễn Trãi (1980); 
  • 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990); 
  • 250 năm Ngày sinh thi hào Nguyễn Du (2015); 
  • 650 năm Ngày mất Nhà giáo Chu Văn An (2019); 
  • 200 năm Ngày sinh của Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (2021); 
  • 250 năm Ngày sinh, 200 năm Ngày mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương (2021)  
  • 300 năm Ngày sinh của Danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (2023).
Hà Nội (TTXVN 22/11) Phiên họp của Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) lần thứ 42 ngày 21/11/2023 đã thông qua nghị quyết phê chuẩn danh sách các “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2024-2025”, trong đó có hồ sơ kỷ niệm 300 năm Ngày sinh của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác của Việt Nam. Năm 2024 là tròn 300 năm Ngày sinh của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Việc UNESCO vinh danh ông là một sự ghi nhận to lớn đối với những công lao, đóng góp, cống hiến của ông cho nền y học, văn học, văn hóa dân tộc Việt Nam cũng như thế giới.


Lê Hữu Trác - “Y thánh của Việt Nam”

Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, Trưởng đoàn Việt Nam tham dự kỳ họp, cho biết việc UNESCO vinh danh Danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác của Việt Nam là sự ghi nhận và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của cá nhân Danh y đối với xã hội, cộng đồng, nhất là tư tưởng nhân văn “sống vì mọi người” và tinh thần “học tập suốt đời,” là những giá trị mà UNESCO đang thúc đẩy.

Nghị quyết được toàn thể thành viên UNESCO thông qua là sự khẳng định rõ ràng nhất về những đóng góp to lớn của người Việt Nam trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, đồng thời thể hiện sự lan tỏa tài năng, trí tuệ của người Việt Nam trên trường quốc tế.


Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791), nguyên quán thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) và quê mẹ ở xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).

Danh y Lê Hữu Trác không chỉ là một nhà y dược học lớn mà còn là nhà thơ, nhà văn xuất sắc, nhà tư tưởng tiến bộ, có tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Là con của Tiến sỹ Thị lang Bộ Công triều, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sớm được theo cha học tập ở kinh thành Thăng Long và nổi tiếng là cậu học trò thông minh, toàn diện.

Lê Hữu Trác từng thi đậu Tam trường, rồi theo học binh thư và được sung vào quân đội chúa Trịnh.

Ông là người quyết đoán, thẳng thắn, cương trực nhưng cũng rất hiền từ, là người có chí khí thanh cao nên sớm chán nản khi chứng kiến những rối ren, ngang trái của xã hội.

Sau một thời gian tham gia việc quân chính, viện cớ anh trai mất và phải nuôi mẹ, ông xin về quê mẹ ở ẩn.

Một cơ duyên đã đưa ông đến với nghề thuốc, đó là trong một lần ốm nặng chạy chữa nhiều nơi không khỏi, ông gặp được lương y Trần Độc ở Rú Thành, tỉnh Nghệ An, để chữa bệnh.

Trong hơn một năm chữa bệnh, những lúc rỗi rãi, Lê Hữu Trác thường mượn sách thuốc của thầy Trần Độc để đọc. Và phần lớn những gì viết trong sách ông đều thấu hiểu.

Thấy Lê Hữu Trác là người sáng dạ, lại có duyên với nghề y dược, lương y Trần Lộc ngỏ ý truyền nghề cho ông.

Vốn là người thông minh, học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ có ích cho mình mà còn có thể giúp đời, giúp người, nên ông quyết chí theo học thuốc.

Lê Hữu Trác tìm đọc rất nhiều sách, đêm ngày miệt mài nghiên cứu y dược, lấy hiệu danh là Hải Thượng Lãn Ông.

Để xây dựng nền y học Việt Nam, Hải Thượng Lãn Ông đề cao sự độc lập suy nghĩ, chống giáo điều, dựa trên thực tế khách quan, trung thực nhận xét để tìm ra chân lý. Ông tham khảo nhiều sách Trung y, và áp dụng một cách sáng tạo lý luận Đông y vào hoàn cảnh Việt Nam, trên cơ thể con người Việt Nam.

Ông nghiên cứu lâm sàng một cách sâu sắc, ghi chép hồ sơ bệnh án một cách tỉ mỉ, chẳng những hồ sơ bệnh chữa khỏi mà cả hồ sơ bệnh tử vong cũng được ghi lại với tất cả lòng trung thực của bản thân để trưng cầu ý kiến đồng nghiệp và làm tài liệu tham khảo nghiên cứu.

Hải Thượng Lãn Ông không chỉ lo cứu người mà ông còn luôn lo nghĩ tới việc viết sách để truyền bá y học Việt Nam đã được các bậc tiên y xây dựng từ trước, và bản thân ông đã dày công đào tạo những thế hệ thày thuốc Việt Nam có đạo đức và y thuật, đủ khả năng bảo vệ sức khỏe cho dân tộc.

Sự nghiệp y dược nổi tiếng của Hải Thượng Lãn Ông được tập hợp trong bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh,” gồm 28 tập, 66 quyển, đề cập từ nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa, thương khoa, truyền nhiễm, cấp cứu đến y đức, vệ sinh phòng bệnh, phương pháp nuôi dưỡng, thậm chí cả chế biến các món ăn dưỡng bệnh...

Có thể nói “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” là tinh hoa của y học nhân loại và y dược cổ truyền Việt Nam.

Không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.

Năm 1781, chúa Trịnh Sâm triệu ông ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Ông có thuật lại sự việc này trong quyển “Thượng kinh ký sự.”

Cuốn sách khá nổi tiếng này phản ánh sự thực của lịch sử, cách sống của vua chúa, cách giao du của tầng lớp công khanh nho sĩ, đồng thời miêu tả lại hình ảnh kinh thành Thăng Long cách đây hơn 200 năm, trong đó có nhiều di tích nay không còn nữa.

Hải Thượng Lãn Ông còn là một nhà thơ có tài, lời thơ mới mẻ, tứ thơ man mác, rất ý nhị được thể hiện trong “Y lý thâu nhân lý ngôn phú chí.”

Ông đã sáng tác rất nhiều bài ca, lời lẽ giản dị, rõ ràng, để người dân bình thường có thể hiểu được, nhớ được về y học dân tộc, như: các bài ca về bào chế thuốc trong “Lĩnh Nam bản thảo,” các bài ca về vệ sinh trong “Vệ sinh yếu quyết diễn ca,” các bài ca về cách xem xét ngũ tạng và các mạch ở tay chân trong “Y gia quan miên”…

Hải Thượng Lãn Ông mất ngày rằm tháng giêng âm lịch năm 1791 tại Bầu Thượng, xã Tịnh Diện (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Nhân dân và giới y học cả nước suy tôn ông là bậc “Y thánh của Việt Nam” và lập miếu thờ chung với Danh y Tuệ Tĩnh ở Hà Nội.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Di sản văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế

Tại Việt Nam hiện đã có 16 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh vào các danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại (Representatitive List of the Intangible Cultural Heritage of Humanity) và cần được bảo vệ khẩn cấp (List of Intangible Cultural Heritage in Need of Urgent Safeguarding) theo thứ tự năm công nhận mới nhất Nhã nhạc cung đình Huế, di sản văn hóa thế giới phi vật thể đầu tiên tại Việt Nam, được công nhận tháng 11 năm 2003, đến năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, "trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia". ...

"Non nước Cao Bằng" vinh dự đoạt giải thưởng toàn cầu

  Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng vinh dự là 1 trong 5 CVĐC trên thế giới được Giải thưởng “Mô hình hoạt động hiệu quả của Mạng lưới CVĐC toàn cầu UNESCO”. Hội nghị quốc tế lần thứ 11 của Mạng lưới Công viên địa chất (CVĐCTC) toàn cầu UNESCO (GGN) diễn ra tại Cộng hòa Chi-lê từ ngày 05 – 15/9. Hội nghị GGN lần thứ 11 quy tụ khoảng 1.000 đại biểu, gồm đại diện các CVĐC toàn cầu UNESCO, các CVĐC tiềm năng, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, chính khách và nhà quản lý. Đây là diễn đàn để các CVĐC gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu những mô hình hiệu quả, giải pháp thiết thực trong xây dựng và phát triển danh hiệu CVĐC theo tiêu chí của UNESCO. Hội nghị cũng khẳng định vai trò gắn kết của GGN trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với mục tiêu phát triển bền vững. Rất đông đại biểu, du khách ấn tượng không gian văn hóa Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng tại Hội nghị GGN lần thứ 11. Tham dự Hội nghị, CVĐC Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng t...

Mạng lưới Công viên địa chất Việt Nam được Unesco công nhận

Danh hiệu Công viên địa chất toàn cầu do Hội đồng tư vấn GGN thuộc UNESCO công nhận. Việt Nam hiện có 4 công viên địa chất toàn cầu gồm: Cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là công viên địa chất toàn cầu vào năm 2010, Công viên Non nước Cao Bằng được công nhận năm 2018, Công viên địa chất Đắk Nông được công nhận năm 2020, Công viên địa chất Lạng Sơn năm 2024. Công viên địa chất Lý Sơn-Sa Huỳnh (tỉnh Quảng Ngãi), là khu vực đang trong quá trình xem xét trở thành Công viên địa chất toàn cầu UNESCO. Theo TS. Trần Tân Văn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản thì viện này đã cùng một số đối tác trong và ngoài nước triển khai trên khoảng 25 khu vực và đã xác định được 15 khu vực có thể xây dựng thành CVĐC Quốc gia. Trong đó khoảng 1/3 đến ½ khu vực hoàn toàn có khả năng trở thành Công viên địa chất Toàn cầu như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Quần đảo Cát Bà (Hải Phòng), Vườn quốc gia Ba Vì (Hà Nội), Vườn quốc gia Cúc Phương - Cố đô Hoa Lư - Tràng An (Ninh Bình), Vườn quốc gia Hoà...